Danh mục

Một số nhà hóa học nổi tiếng – P.2

18/11/2021
Đăng bởi Nhật Tài

7. Vladimir Vasilevich Markovnikov

Vladimir-Vasilevich-Markovnikov-hoahochieuhanh
Vladimir Vasilevich Markovnikov

Vladimir Vasilevich MarkovnikovVladimir Vasilevich Markovnikov (tiếng Nga: Владимир Васильевич Марковников) (22 tháng 12 năm 1838 tại Nizhny Novgorod – tháng 2 năm 1904) là một nhà hóa học người Nga.

Markovnikov được biết đến nhiều nhất là nhờ quy tắc Markovnikov, được ông phát triển năm 1869. Quy tắc này là hữu ích trong dự đoán cấu trúc phân tử của các sản phẩm trong các phản ứng cộng. Do ông không xuất bản công trình của mình bằng bất kỳ ngôn ngữ nào ngoài tiếng Nga nên công trình của ông mãi cho tới năm 1889 vẫn chưa được thế giới biết đến.

Sự nghiệp
Phát triển học thuyết cấu trúc hóa học của A. M. Butlerov, ông nghiên cứu ảnh hưởng lẫn nhau của các nguyên tử trong các hợp chất hữu cơ và thiết lập một số quy tắc (trong đó có quy tắc kết hợp của các halogenua hiđrô với các hyđrocacbon không no với liên kết đôi và liên kết ba, sau này mang tên ông vào năm 1869 là quy tắc Markovnikov). Năm 1865, ông cũng phát hiện ra đồng phân của các axít béo. Từ đầu thập niên 1880, ông nghiên cứu về dầu mỏ ở khu vực Kavkaz, phát hiện ra naphten (ankan vòng) trong hóa hữu cơ bằng các phát hiện ra các vòng cacbon với trên 6 nguyên tử, vòng với 4 nguyên tử cacbon năm 1879 và vòng với 7 nguyên tử cacbon năm 1889.

Ông là một trong những người thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp hóa chất tại Nga và là một trong những người tổ chức ra Hiệp hội Hóa học Nga năm 1868.

8. Humphry Davy

Humphry-Davy-hoahochieuhanh
Humphry Davy

Humphry Davy, Tòng nam tước thứ nhất, FRS (thông thường viết và phát âm không chính xác là Humphrey; 17 tháng 12 năm 1778 – 29 tháng 5 năm 1829) là một nhà vật lý và nhà hóa học người Cornwall. Ông sinh ra tại Penzance, Cornwall, Vương quốc Anh.

Sir (Ngài) Humphry là cách gọi trang trọng để chỉ địa vị xã hội của ông. Davy trở nên nổi tiếng nhờ các thực nghiệm của ông về các phản ứng sinh lý của một số chất khí, trong đó có cả khí gây cười (ôxít nitrơ tức đinitơ mônôxít hay N2O). Davy sau đó bị suy giảm thị lực trong một tai nạn phòng thí nghiệm khi ông đang thử nghiệm nitơ triclorua. Năm 1801 ông được chỉ định làm giáo sư tại Viện Hoàng gia của Đại Anh quốc (Great Britain) và viện sĩ Hội Khoa học Hoàng gia Anh mà sau đó ông là chủ tịch của hội này.

Humphry Davy thời trẻ tuổi.Năm 1800, Alessandro Volta giới thiệu pin lần đầu tiên. Davy đã sử dụng pin này để tách các muối bằng cách mà ngày nay người ta gọi là điện phân. Với nhiều pin mắc nối tiếp ông đã có thể tách ra các nguyên tố kali, natri năm 1807 và canxi, stronti, bari, magiê năm 1808. Ông cũng nghiên cứu năng lượng tham gia vào trong việc chia tách các muối này, mà ngày nay là một lĩnh vực của điện hóa học.

Năm 1812 ông được phong tước hiệp sĩ, đọc bài diễn thuyết chia tay tại Viện Hoàng gia, và cưới một góa phụ giàu có là Jane Apreece. Sau kỳ nghỉ dài tại châu Âu lục địa, ông bắt đầu sản xuất đèn Davy là loại đèn an toàn cho công nhân mỏ.

Ông cũng chỉ ra rằng ôxy không thể thu được từ các chất gọi là axít ôxymuriatic và chứng minh rằng chất thu được là một nguyên tố, ông đặt tên nó là chlorine (clo trong tiếng Việt). Phát minh này đã lật đổ định nghĩa của Lavoisier về axít như là hợp chất chứa ôxy.

Năm 1815 Davy giả thiết rằng các axít là các chất chứa hiđrô có thể thay thế – hiđrô mà có thể thay thế một phần hay toàn phần bởi các kim loại. Khi các axít phản ứng với kim loại thì chúng tạo thành các muối. Các bazơ là các chất có phản ứng với axít để tạo ra muối và nước. Các định nghĩa này làm việc tốt trong nhiều thế kỷ. Ngày nay chúng ta sử dụng thuyết Brønsted-Lowry về axít và bazơ.

Năm 1818, ông được ban thưởng tước hiệu tòng nam tước.

Năm 1824 ông đề xuất và cuối cùng đã tạo ra một lớp bọc bằng sắt cho thân tàu bằng đồng như là lần sử dụng đầu tiên của phương pháp bảo vệ catốt.

Davy mất tại Geneva, Thụy Sỹ, việc hít thở phải hơi của các loại hóa chất khác nhau cuối cùng đã thể hiện tác hại của chúng đối với sức khỏe của ông. Người trợ tá phòng thí nghiệm của ông là Michael Faraday đã tiếp tục mở rộng các công trình của ông và sau đó đã trở nên nổi tiếng hơn và có ảnh hưởng hơn – đến mức mà Davy cho rằng Faraday là phát hiện lớn nhất của đời ông. Tuy nhiên, sau này ông đã kết tội người trợ tá của mình là ăn cắp ý tưởng của mình, điều này khiến cho Faraday đã phải giảm mọi nghiên cứu trong lĩnh vực điện từ trường cho đến tận khi người thầy thông thái của ông mất.

9. Henry Cavendish

Henry-Cavendish-hoahochieuhanh
Henry Cavendish

Henry Cavendish tên đầy đủ là Henry Cavendish (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1731- 24 tháng 3 năm 1810 ) là một nhà vật lý, hóa học người Anh người đã phát hiện ra hydrogen, tính ra được một hằng số hấp dẫn và tính được khối lượng trái đất. Tên của Cavendish được đặt cho Phòng thí nghiệm Cavendish ở Đại học Cambridge, một trong những phòng thí nghiệm nghiên cứu phát triển mạnh ở Vương quốc Anh về các lĩnh vực công nghệ cao.

Tiểu sử

Ông sinh ở Nice,Pháp-nơi gia đình ông đang sống.Mẹ ông là bà Lady Anne Grey,con của Bá tước Kent và cha là Lord Charles Cavendish, con của bá tước Devonshire.Dòng họ của ông đã trải qua xuyên suốt hơn 8 thế kỉ và có mối liên hệ mật thiết với nhiều gia đình danh giá ở Anh.

Lúc 11 tuổi,Cavendish là học sinh ở học viện của tiến sĩ Newcome ở Hackney. Vào năm ông 18 tuổi (năm 1749),ông vào học tại trường Đại học Cambridge. Nhưng bốn năm sau đó, ông đã rời trường trước khi tốt nghiệp và viết công trình đầu tiên của ông có tên gốc là “Factitious Airs” vào 18 năm sau (1766).

Cavendish là một con người thầm lặng và đơn độc,và ông được mọi người khác coi là khá lập dị, ông không tạo dựng được bất kì mối quan hệ thân thiết với ai ngoài những thành viên trong gia đình. Có một người từng nói rằng: Cavendish có một chiếc cầu thang xoắn bắc vào nhà ông qua cửa sau vì ông ngại đụng mặt người làm của ông, vốn là một phụ nữ bởi vì ông đặc biệt rất ngại ngùng khi tiếp xúc với phụ nữ.Đặc điểm tính cách khác thường này của ông về sau, đã được xác nhận là hội chứng Asperger, mặc dù ông hiếm khi hoàn toàn ngại ngùng trước phụ nữ. Thú vui ngoài xã hội duy nhất của ông là tham dự Hiệp hội Hoàng gia (Royal Society Club), nơi mà những thành viên thường dùng bửa tối cùng nhau trong những cuộc gặp hàng tuần. Và ông hiếm khi nào bỏ lỡ những buồi tiệc đó,và được những người đương thời kính trọng bởi kiến thức cửa ông. Bên cạnh đó, ông còn có một thú vui khác là sưu tầm các đồ nội thất độc đáo.

Bởi cánh sống khép kín và lặng lẽ, Cavendish thường từ chối xuất bản rộng rãi những công trình nghiên cứu của mình. Và thậm chí một số khám phá khoa học của ông còn không được các đồng nghiệp biết đến. Cho đến tận cuối thế kỉ 19, rất lâu sau khi ông mất, James Clerk Maxwell đã xem qua những công trình của Cavendish và khám phá ra những điều mà đã giúp Maxwell kiếm được rất nhiều tiền. Ví dụ như là những gì được đề cập đến trong cuốn “Những khám phá và dự đoán của Cavendish” (Cavendish’s discoveries or anticipations) bao gồm Richter’s Law of Reciprocal Proportions,định luật Ohm, Định luật Dalton và lực nén (Dalton’s Partical Pressure),qui luật hình thành các electron và Định luật Charles về các chất khí (principles of electrical conductivity and Charles’s Law of Gases.)…

Ông chết năm 1810 và được an táng tại Derby Catheral cùng với nhiều người thuộc dòng họ. Phòng thí nghiệm mang tên Hernry Cavendish ở Đại học Cambridge đã được thành lập bởi một số họ hàng của Cavendish, điển hình là William Cavendish, Bá tước đời thứ 7 của Devonshire.

Khám phá về các chất khí và khí quyển
Cavendish được biết đến là một trong những nhà hóa học về các chất khí của thế kỉ thứ 18 và 19, cùng với một số các nhà khoa học khác như Joseph Priestley, Joseph Black, Daniel Rutherford. Bằng việc cho các kim loại phản ứng với các acid mạnh, Cavendish đã tìm ra khí Hydro, và ông đã nghiên cứu về nó. Mặc dù một số đồng nghiệp khác, như Roberts Boyle, đã tạo ra được khí Hydro sớm hơn, thế nhưng, Cavendish vẫn được giải thưởng vì đã nhận biết được nguyên tố này trong tự nhiên.

Cavendish đã tìm ra rằng khí Hydro, cái mà ông gọi là “khí ko cháy”, khi phản ứng với khí Oxy sẽ tạo ra nước. James Watt và Antoine Lavoisier cũng đã làm những thí nghiệm tương tự. Và trong một thời gian dài, đã có sự tranh cãi gay gắt về việc ai là người đầu tiên thực hiện thí nghiệm trên.

Cavendish cũng đã tìm ra được gần như chính xác các thành phần khí quyển của Trái Đất. Ông cho rằng: 79,167% là các chất khí “phlogisticated air”, bây giờ đã được xác định là khí Nitơ và Ar, 22,8333% là các chất khí gọi là “dephlogisticated air”, mà bây giờ được xác định là khí Oxy, chiếm 20,95%. Cavendish cũng khám phá ra rằng 1/20 bầu không khí của Trái Đất được tạo nên từ một loại khí thứ 3 vốn là khí Argon, được tìm ra bởi William Ramsay và Lord Rayleigh khoảng hơn 100 năm sau.


Đo hằng số hấp dẫn, thí nghiệm cân Trái đất
Định luật vạn vật hấp dẫn đã được Isaac Newton tìm ra năm 1687. Vào thời điểm đó, hằng số hấp dẫn trong công thức tính lực hấp dẫn vẫn chưa được đo đạc chính xác.

Thí nghiệm xác định hằng số hấp dẫn dựa trên đo lực hấp dẫn giữa các vật thể trong phòng thí nghiệm ban đầu được đề xuất bởi John Michell, người đã chế tạo lò xo xoắn để đo mômen lực nhỏ một cách chính xác nhưng đã mất năm 1793 trước khi kịp thực hiện thí nghiệm của mình. Lò xo xoắn sau đó được chuyển giao cho Francis John Hyde Wollaston, rồi đến tay Henry Cavendish.

Khoảng năm 1797 đến 1798, Cavendish thực hiện lại dự định thí nghiệm của Michell, và ghi chép lại kết quả trong quyển Philosophical Transactions năm 1798. Ông xây dựng lại lò xo xoắn, sử dụng thiết bị thuê của người dân nông thôn. Ông gắn hai viên bi kim loại vào hai đầu của một thanh gỗ dài 1,8 mét, rồi dùng một sợi dây mảnh treo cả hệ thống lên, giữ cho thanh gỗ nằm ngang. Sau đó, Cavendish đã dùng hai quả cầu bằng chì, mỗi quả nặng 159 kg, tịnh tiến lại gần hai viên bi ở hai đầu thanh gỗ. Để tránh bị gió thổi gây ra rung động, Cavendish đặt hệ thống trong buồng kín gió, và quan sát hệ thống thông qua kính viễn vọng.

Lực hấp dẫn do hai quả cầu chì tác dụng vào hai viên bi làm cho cây gậy quay một góc nhỏ. Cavendish đo góc này bằng kính viễn vọng và tính ra được mômen lực tác động lên lò xo xoắn, và suy tiếp ra hằng số hấp dẫn nhờ vào các khối lượng đã biết. Biết được hằng số hấp dẫn và gia tốc trọng trường trên bề mặt Trái Đất, Cavendish đã tính ra được khối lượng của Trái Đất là 6 × 1024 kg. Kết quả này đã mang lại tên gọi khác cho thí nghiệm là thí nghiệm cân Trái Đất. Việc đo được khối lượng Trái Đất cũng cho phép suy ra khối lượng Mặt Trăng và các thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời, thông qua các định luật cơ học và định luật vạn vật hấp dẫn.

Các nghiên cứu về điện

Các thí nghiệm về điện của Cavendish không được biết cho đến tận lúc được tìm nhặt và cho xuất bản bở James Clerk Maxwell 1 thế kỉ sau khi Cavendish mất. Vào năm 1879, rất lâu sau khi các nhà khoa học khác đã tìm ra những gì mà Cavendish đã làm trước đó. Một số các phát kiến của Cavendish về điện:

Định luật Ohm.
Định luật Coulomb.

10. Alexander Fleming

Alexander-Fleming-hoahochieuhanh
Alexander Fleming – Người tìm ra Penixilin

Người khám phá ra penixilin là Alexander Fleming, con một chủ trại ở Scotland, ông đã tới Luân Đôn khi còn trẻ để học ở trường y Saint Mary Hospital.

Năm 1992, Fleming nhận thấy rằng chất nhầy lấy từ trong mũi của ông, có tác dụng ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn cấy trên thạch. Sau đó ông lại còn nhận thấy rằng, nước mắt của cong người cũng có tác dụng làm tiêu tan các vi khuẩn.

Năm 1928, Fleming đã cấy trên thạch loài tụ cầu khuẩn màu vàng. Nhưng do sơ suất, trong khi mở nắp hộp nuôi cấy bằng thủy tinh ra xem, chổ cấy của ông đã bị nhiễm bởi một loại mốc từ ngoài cửa sổ để mở bay vào. Ông để ý theo dõi thì thấy chỗ nào bị mốc thì tụ cầu khuẩn không phát triển. Ông đã chứng minh được rằng loài mốc Penicillium notaum đó đã ngăn chặn được sự phát triển của một số vi khuẩn. Chất kháng sinh được phát hiện trong dịch mốc đó được đặt tên là penixilin, vì bộ phận sinh sản của loài mốc đó có hình dạng giống cái bút lông (tiếng la tinh penicillium ngĩa là cái bút lông). Tháng hai năm 1929, ông công bố phát minh của ông tại Câu lạc bộ Nghiên cứu Y học ở Luân Đôn. Nhưng sau đó 10 năm, người ta đã lãng quên mất chất penixilin.

Năm 1935, tại trường Đại học Oxford, một người Australia, bác sĩ Howard Florey được bổ nhiệm là Giáo sư môn Bệnh học. Đồng thời ông Chain sinh ra ở Berlin, mẹ là người Đức, bố là người Nga, nhưng vì là gốc Do Thái, nên ông Chain buộc phải rời Đức sang nước Anh để cùng cộng tác với Florey. Hai ông tìm ra bài báo mà Fleming đã viết từ năm 1929. Đầu năm 1939, Chain mới bắt đầu nghiên cứu lại chất penixilin. Ông xin được vài bào tử mốc Penicillium notaum đem cấy trên thạch, rồi bằng phương pháp đông khô, ông đã lấy ra được từ bã của dịch mốc một thứ bột màu nâu có tính kháng sinh cao hơn dịch ban đầu, nhưng còn chứa tạp chất. Chain đã tìm ra được cách loại tạp chất và đạt được một thứ bột mịn màu vàng có tác dụng kháng sinh gấp nghìn lần mốc đầu tiên của Fleming.

cong-thuc-phan-tu-3d-cua-Penixilin-hoahochieuhanh
Công thức phân tử 3D của Penixilin

Tháng 5 năm 1940, Florey tiêm vào chuột các vi khuẩn như tụ cầu, liên cầu và Clostridium (vi khuẩn gây bệnh hoại thư khí), rồi sau đó tiêm penixilin thì chuột không chết. Florey và Chain công bố kết quả này vào ngày 24-08-1940 trên tạp chí y học của Anh: “The Lancet”.

Tại bệnh viện Oxford, một cảnh sát bị nhiệm độc màu bởi tụ cầu khuẩn. Ngày 12-02-1941, Florey và Chain tiêm thử Penixilin cho viên cảnh sát này thì thấy có kết quả, nhưng vì hết thuốc nên viên cảng sát đó đã từ trần ngày 15-03-1941.

Sau đó vì chiến tranh, việc nghiên cứu penixilin được chuyển sang Hoa Kỳ. Một nữ nhân viên của phòng thí nghiệm nghiên cứu mốc ở Peorin (Hoa Kỳ), ra chợ mua một quả dưa tây bị mốc đem về để cấy loài mốc mới Penicillium Chrysogeum có ở dưa thì thấy dùng loài mốc mới này để sản xuất penixilin tốt hơn loài cũ Penicillium notatum mà Fleming đã dùng lần đầu tiên. Ngay từ năm 1943, một lượng penixilin đã được sản xuất từ loài mốc mới lấy từ quả dưa bở mua ở chợ về để thử trong phòng thí nghiệm. Người tra đã tung ra loại thuốc kháng sinh mới này để cứu sống các thương binh trong thế giới lần thứ hai.

Năm 1945, Fleming được giải thưởng Nobel về y học. Ông mất năm 1955, thọ 74 tuổi.

Ông Chain đã kết luận như sau: “ Làm việc tập thể là quan trọng để đẩy mạnh một phát minh mới đã được khám phá ra. Nhưng tôi cho rằng không bao giờ một tập thể lại có thể đưa ra được một sáng kiến mới.”

11. Antoine Lavoisier

Antoine-Lavoisier-hoahochieuhanh
Antoine Lavoisier

Cha đẻ của hóa học hiện đại
Sinh 26 tháng 8, 1743(1743-08-26) tại Paris, Pháp
Mất 8 tháng 5, 1794 (50 tuổi) tại Paris, Pháp

Nghề nghiệp nhà hóa học
Antoine Laurent de Lavoisier (26 tháng 8 năm 1743 – 4 tháng 5 năm 1794) là một trong những nhà hóa học vĩ đại nhất trong lịch sử. Ông đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho lịch sử hóa học như việc tìm ra định luật bảo toàn nguyên tố, việc đề ra lý thuyết về sự ôxi hóa các chất năm 1777 đã đập tan sự thống trị từ nhiều thế kỷ trước đó của thuyết nhiên tố do Georg Ernst Stahl đề xuất. Với những đóng góp đó, ông trở nên bất tử trong nghành hóa học, được xem là cha đẻ của ngành hóa học hiện đại tuy nhiên vì những bất ổn của xã hội Pháp cuối thế kỷ 18 mà đỉnh điểm là cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 đã khiến ông bị xử tử ngày 4 tháng 5 năm 1794 vì nghi ngờ có dính dáng đến hoạt động của giới quý tộc khi ông 51 tuổi.

Thời thơ ấu
Lavoisier sinh tại Paris, mẹ ông mất khi ông mới 5 tuổi. Ông theo học trường trung học Mazarin từ năm 1754 đến năm 1761. Từ năm 1761 đến năm 1763, ông học luật tại Đại học Paris và ông nhận bằng cử nhân luật năm 1763. Trong khoảng thời gian này, ông cũng đã thể hiện tài năng về những môn khoa học tự nhiên của mình Ông đã cống hiến hết sức lực và niềm đam mê của mình cho môn hóa học với việc ông muốn giành được học bổng lớn hồi bấy giờ là học bổng Étienne Condillac. Công trình hóa học đầu tiên của ông hoàn thành năm 1764. Ở tuổi 25, ông được xem là một người có rất nhiều triển vọng trong tương lai với tinh thần học hỏi và một trí tuệ tuyệt vời.


Thuyết ôxi hóa của Lavoiser và sự sụp đổ của thuyết nhiên tố
Bộ dụng cụ thí nghiệm của LavorsierTrước thế kỷ 18, hóa học bị chi phối bởi thuyết nhiên tố (phlogiston) của Georg Ernst Stahl và Johann Joachim Becher, tất cả các phản ứng đều được giải thích theo thuyết nhiên tố và tuy nó bộc lộ rất nhiều sơ hở và mâu thuẫn nhưng vẫn được chấp nhận vì vẫn chưa có lý thyết nào thay thế được nó. Cho đến giữa thế kỷ 18 đã xuất hiện những đòn công kích thuyết nhiên tố trong đó có nhà bác học Nga Mikhail Vasilyevich Lomonosov nhưng ông mới chỉ cho thấy những mâu thuẫn của thuyết này mà chưa giải thích được tại sao lại có các mâu thuẫn đó nhưng nó đã làm cho thuyết nhiên tố không còn đứng vững như trước nữa. Và cuối cùng vào năm 1774, Lavoisier khi làm thí nghiệm đốt nóng kim loại trong bình kín đã đã có một phát minh mới vô cùng quan trọng đó là khi biến thành một chất khác, kim loại đã hấp thu một trọng lượng gần bằng 1/5 không khí trong bình. Từ đó, ông đã đi đến kết luận rằng trong quá trình biến đổi hóa học, kim loại đã hấp thu một thành phần nào đó của không khí mà thành phần đó bằng đúng 1/5 trọng lượng không khí chứ không hề có chất gì gọi là nhiên tố cả. Và chính thí nghiệm trên của Lavoisier đã chứng minh được rằng sự cháy là sự kết hợp của kim loại và một thành phần của không khí mà về sau ông gọi là ôxy. Năm 1777, ông đề ra thuyết ôxi hóa và tuy bị một số người phản đối thế nhưng đã lôi kéo được nhiều nhà khoa học lớn trong đó có Claude Louis Berthollet, người nhờ 17 công trình khoa học về thuyết nhiên tố mà đã được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học Paris.


Các công trình khoa học khác của ông
Tranh vẽ Lavoisier và vợTrong khoảng thời gian từ 1778 đến năm 1882, ông trực tiếp phụ trách xưởng chế tạo thuốc súng nghiên cứu nông nghiệp và đưa ra nhiều cải tiến có giá trị. Năm 1782, ông cùng 1một số nhà hóa học nổi tiếng khác định ra quy tắc thống nhất về cách gọi tên các hợp chất hóa học đặt nền móng cho sự phân loại các chất. Toàn bộ nhưng công trình trên của ông đã khiến cho thuyết nhiên tố tồn tại nhiều thế kỷ qua sụp đổ.

Để tổng kết các công trình của mình, năm 1789 Lavorsier đã xuất bản cuốn sách Traité Élémentaire de Chimie (Các biến đổi của hóa học) với những hình vẽ tyệt vời do vợ ông minh họa. Cuốn sách gây chấn động thề giới và lập tức được dịch ra nhiều thứ tiếng như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hà Lan, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý,… Chỉ 2 năm sau khi cuốn sách ra đời, người đứng đầu thuyết nhiên tố là Richard Kirwan đã đầu hàng vô điều kiện.

Cái chết của Lavoisier
Tượng Lavorsier ở ParisCuộc cách mạng hóa học vào cuối thế kỷ 18 đã hoàn tất. Trong lúc đó, tình hình xã hội Pháp trải qua nhiều biến động mà đỉnh điểm là cuộc Cách mạng Pháp năm 1789. Lavorsier với những hoạt động chính trị và kinh doanh liên quan đến giới quý tộc như tham gia đầu tư, quản trị của công ty thu thuế cá nhân Ferme Générale; chủ tịch uỷ ban của Discount Bank (sau đổi tên thành Banque de France); và là một thành viên giàu quyền lực trong một số hội đồng quản trị quý tộc khác và nhất là việc ông trở thành một chuyên viên thu thuế đã khiến ông trở thành một đối tượng của cách mạng. Người tham gia kết tội ông là Antoine Fouqier-Tinville, ủy viên công tố của phái Jacobin dựa trên những lời kết tội của một nhà khoa học khác là Jean-Paul Marat, một người có nhiều mâu thuẫn với Lavorsier. Và mặc dù Maximilien Robespierre, người đứng đầu phái Jacobin đã tìm ra những lý lẽ bào chữa cho ông như việc ông tìm ra trọng lượng của hệ metric mới và chế tạo thuốc súng nhưng ông vẫn bị đem ra xét xử vào ngày 4 tháng 5 năm 1784 và bị kết án tử hình. Trước khi bị xử tử, ông đã xin phép được hoàn thành nốt một thí nghiệm quan trọng nhưng quan tòa nói rằng: “Nền cộng hòa không cần các nhà khoa học hay hóa học…” và ông bị xử tử ngay chiều hôm đó. Nhà toán học Joseph Louis Lagrange, một trong những người bạn của ông, đã phát biểu: “Chỉ trong phút chốc người ta chặt cái đầu của Lavorsier nhưng nước Pháp trong một trăm năm nữa cũng không thể tìm đâu được một cái đầu như thế!”. Hai tháng sau, Robespierre bị lật đổ và hành quyết còn Fouquier-Tinville cũng lên máy chém một năm sau đó.

12. Benedictus

Benedictus-hoahochieuhanh
Benedictus

Câu chuyện xảy ra vào một ngày đầu thế kỉ XX. Nhà hóa học ng­ười Pháp Edouard Benedictus đang làm thí nghiệm trong phòng. Vì vô ý tay ông va đổ một bình nung  bằng thủy tinh để trên bàn. Chếc bình lăn vài vòng và rơi xuống mặt đất rất nặng. Như­ng rất lạ chiếc bình không vỡ mà chỉ bị rạn nứt trên mặt bình. Benedictus nhìn chiếc bình đựng dung dịch cellulorơ nitrate như­ng dung dịch trong bình đã bốc hơi hết chỉ còn một lớp màng mỏng bám chắc vào thủy tinh vì lúc đó ông đang bận thí nghiệm không kịp để bình về vị trí cũ.

Benedictus-2-hoahochieuhanh

Benedictus-3-hoahochieuhanh

Mấy hôm sau Benedictus đọc tin báo có một thông tin: Sáng sớm hôm nay ở Pari xảy ra một vụ tai nạn xe làm vỡ tan kính chắn gió trên xe gây nên thương vong cho nhiều ng­ười. Lúc đó, Benedictus đột nhiên nghĩ đến chiếc bình rơi không bị vỡ của mình hôm nọ, nếu có thể phát minh ra một loại thủy tinh đập không vỡ thì chẳng phải đã làm giảm thương vong đó sao?

Benedictus tìm lại chiếc bình, bắt đầu chuyên tâm nghiên cứu. Trải qua nhiều lần làm thí nghiệm, cuối cùng Benedictus đã phát minh ra một loại thủy tinh mới – thủy tinh an toàn. Độ bền của thủy tinh an toàn lớn gấp nhiều lần thủy tinh th­ường vì thế việc sử dụng nó rất rộng rãi không những trong ôtô mà còn dùng trong máy bay, tàu du hành vũ trụ…